This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Bật mí chế độ ăn, uống của Hoàng gia Anh

Những xét nghiệm trên bộ xương bị thất lạc lâu năm của Vua Anh - Richard III đã làm hé lộ 1 điều rằng vị quốc vương thời Trung Cổ đã có 1 đời sống ẩm thực khá phong phú, chẳng hạn như các loại thịt chim công, diệc và thiên nga, và rằng ngài chủ trương thích những cái gì đó tinh túy nhất trong đời sống thường nhật của mình – bao gồm rượu vang – nhu cầu này tăng đáng kể sau khi Richard đăng quang ngai vàng của nước Anh.

Các nhà khoa học ở Cơ quan nghiên cứu địa chất Anh (BGS) đã đo lượng đồng vị bao gồm oxygen, strontium, nitrogen và carbon trong hài cốt của vua Richard III, được khai quật bên dưới lòng đất ở 1 bãi đỗ xe tại thành phố Leicester (Anh) về năm 2012. Trong một bài báo được công bố bởi Báo cáo lĩnh vực khoa học khảo cổ (JAS), các nhà khoa học nói rằng qua các xét nghiệm đã hé lộ những manh mối về nơi vị vua đã từng sống, cũng như Hoàng gia đã ăn và uống cái gì, theo các chuyên gia “để nhằm tái cấu trúc lại lịch sử cuộc đời” của vị Hoàng đế Plantagenet cuối cùng.

Nhà hóa học đồng vị Angela Lamb, người dẫn đầu cuộc nghiên cứu, nói rằng dựa trên 2 cái răng – 1 răng hàm và một răng cửa – và 2 mảnh xương – một xương sườn và một xương đùi – đã được phân tích, cho thấy mỗi cái chứa đựng những thông tin không như nhau và có thể cung cấp nhiều manh mối khác nhau về đời sống của vua Richard III.

Bà Angela Lamb phát biểu trên hãng tin CNN: “Răng đã phát triển trong thời thơ ấu và không thay đổi, vì vậy, chúng ta có thể nhận nhiều thông tin về những năm đầu đời của 1 con người. Xương cũng khác biệt, chúng liên tục tái cấu trúc trong suốt đời người – nếu như bạn bị gãy xương, nó có thể tự chữa lành. Xương đùi khá đặc và chậm phát triển, vì thế nó có thể hé lộ cho chúng ta biết vào thời hạn 10 hay 15 năm của đời người; trong khi đó xương sườn lại xốp và tái tạo nhanh hơn, vì thế nó có thể mách cho chúng ta về thời điểm hai hay 3 năm của đời người”.

2 vết chấn thương sâu ở đỉnh đầu, có thể ảnh hưởng tới hộp sọ.

Chế độ ăngiàu đạm

Đây chính là chiếc chìa khóa trong trường hợp của vua Richard III diễn ra từ lúc ông làm vua chỉ trong vòng 26 tháng trước lúc băng hà trong cuộc chiến Bosworth về năm 1485 – và phân tích cho thấy chế độ ăn uống của Hoàng gia Anh  đã trảo đổi rõ rệt trong vài năm ngắn ngủi sau khi ông đăng quang. Các nhà quý tộc thời Trung Cổ được biết đến là sử dụng 1 chế độ ăn uống giàu chất đạm với nhiều cá sông và chim trời hoang dã, một phần vì họ tuân theo việc “kiêng thịt” trong suốt 1/3 năm. Cá và chim trời – các loài chim như diệc, thiên nga và cò – lại không được xem là thịt.

Bà Angela Lamb giải thích: “Rõ ràng, trước khi lên ngôi vua, Richard đã là 1 nhà quý tộc, và vì vậy chế độ ăn uống của ông là nhất là phong phú. Nhưng một lúc đã lên ngai vàng, ông mong chờ mình sẽ chiến thắng và ăn uống nhiều hơn nữa, cỗ bàn linh đình hơn. Thức ăn đóng một dấu mốc cần yếu trong thời kỳ Trung Cổ.

Bà Angela Lamb tiếp diễn giải thích: “Chúng tôi khám phá ra rằng trong bữa tiệc nhân ngày Richard lên ngôi thực sự rất tỉ mỉ với nhiều chim trời bao gồm các “sơn hào hải vị” chẳng hạn như chim công, thiên nga và cá (cá chép), cá chó, được đánh bắt trong những hồ nước đặc biệt”.

Phân tích khoa học để tìm ra chế độ ẩm thực

Phù hợp với những hồ sơ lịch sử từ thời sinh tồn của vua Richard III với những dữ liệu khoa học mới được thu thập từ chính hài cốt của ông, đã khiến các chuyên gia phải tiến hành 1 cơ hội độc đáo trong việc “kiểm tra chéo” để hiểu rõ hơn về thời ở vị và đời sống của nhà vua. Khi ông Richard Buckley, 1 nhà khảo cổ học của Đại học Leicester trong khi khai quật mộ mà ông nghi là nơi có hài cốt của nhà vua, ông giải thích: “Thật sự rất hiếm trong ngành nghề khảo cổ khi có thể xác định một cá nhân với các dữ liệu chính xác và hồ sơ về cuộc đời. Nhưng qua phân tích các đồng vị căn bản đã cho chúng tôi thấy môi trường nào đã ảnh hưởng tới nhà vua, và có lẽ nhu yếu nhất là xác định những trảo đổi lớn lớn trong chế độ ăn uống của Richard lúc ông làm vua về năm 1483”.

Qua các phân tích đồng vị dựa trên những hồ sơ vào đời sống của vua Richard cho thấy: ngài đã chào đời ở miền Đông nước Anh nhưng trải qua phần lớn thời thơ ấu tại miền Tây nước Anh. Và từ các tài liệu cổ đã cho thấy nơi sống của nhà vua, đã cho phép các chuyên gia hiểu hơn 1 số thứ gì đó về các phân tích đồng vị. Nhà nghiên cứu Angela Lamb cho biết: “Bằng cách quan sát mức độ các đồng vị oxygen, chúng tôi có thể nói về nơi người ta từng sống, bởi vì oxygen đến từ nước uống mà họ đã từng tiêu thụ lúc sinh thời. Trong trường hợp này, các đồng vị cho thấy rằng (hướng vào cuối đời của nhà vua), vua Richard từng sống ở Tây Nam nước Anh, nhưng tài liệu không cho thấy điều này, vì thế chúng tôi sẽ tìm cách giải thích khác”.

Bộ xương đặt nằm và đường cong cột sống rất kỳ lạ.

Thói quen uống rượu

Với những khám phá mà các nhà khoa học thực sự cho thấy vào chính sách ăn uống xa hoa của Richard III, họ bắt đầu tự nhủ liệu có 1 cái gì đó khác trong các đồng vị oxygen để chỉ ra rằng nhà vua từng uống 1 thứ gì đó khác nước. Pha nước vào rượu được xem là cách làm đánh tráo nồng độ đồng vị, nhưng bia lại không có vị trí cao trong thời đại Trung Cổ. Nhà nghiên cứu Angela Lamb giải thích: “Chúng tôi cần biết một số thứ gắn kết với những thực phẩm đẳng cấp mà Richard đã từng ăn. Thời điểm đó, rượu vang đã gắn bó với đời sống của các tầng lớp quý tộc – nó được nhập khẩu đến Anh, khá đắt đỏ và chỉ người rất giàu có mới có thể sử dụng”. Bằng cách tiến hành các xét nghiệm hiện đại tương đương, các nhà khoa học đã có thể kết luận rằng vua Richard đã uống 1 chai rượu mỗi ngày – và lần đầu tiên, nhu cầu tiêu thụ rượu đã ảnh hưởng tới nồng độ đồng vị oxygen.

Nhà nghiên cứu Angela Lamb kết luận: “Đây thật sự là điều kỳ thú. Chúng tôi đã từng sử dụng các kỹ thuật này phần nhiều lần nhưng chưa từng “kiểm tra chéo” lần nào cả, và kết quả thu được thật ấn tượng”.

Nguyễn Thanh Hải (CNN – 2014)

 

Ngôi sao & tỷ phú người Pháp từng trộm cắp và làm trai baoNgôi sao & tỷ phú người Pháp từng trộm cắp và làm trai baoMón ăn trị bệnh từ thịt gàMón ăn trị bệnh từ thịt gàNghiên cứu vào hệ thống định vị trong não được giải Nobel Y họcNghiên cứu về hệ thống định vị trong não được giải Nobel Y học

 

Mối nguy tiềm ẩn từ polyp túi mật

Một polyp túi mật là bất kỳ tổn thương nào nhô cao từ bề mặt niêm mạc túi mật, bao gồm cả tổn thương lành tính và ác tính. Tuy đa số polyp túi mật là lành tính, nhưng vẫn có 1 số trường hợp là ung thư, đây là mối nguy tiềm ẩn cho tính mạng bệnh nhân. Vì vậy, việc phát hiện và xử lý polyp ác tính có ý nghĩa cứu sống bệnh nhân.

Có nhiều dạng polyp túi mật

Polyp túi mật là 1 bệnh thường gặp với tỉ lệ khoảng 5% dân số. Trong đó 95% là lành tính và phần to là những polyp cholesterol. Một vài nghiên cứu cho thấy: các polyp cholesterol thường gặp ở những bệnh nhân từ 40-50 tuổi, phổ biến là ở phụ nữ; polyp cholesterol chiếm trên 50% các trường hợp polyp túi mật, chúng thường nhiều và có cuống, có kích thước từ 2-10mm; adenomyomas là loại phổ biến thứ 2 của polyp túi mật, chiếm khoảng 30% trường hợp polyp túi mật, thường đơn độc, kích thước từ 10-20mm, thường thấy ở đáy của túi mật; các polyp ác tính chiếm khoảng 5%; những polyp ít gặp là ung thư nơi khác di căn tới túi mật, carcinoma tế bào vảy và angiosarcoma.

Sơ đồ miêu tả 1 trường hợp polyp ung thư túi mật.

Sơ đồ diễn tả một trường hợp polyp ung thư túi mật.

Hầu hết các polyp nhỏ không phải là tổn thương ung thư và có thể không thay đổi trong nhiều năm. Nhưng nếu như polyp nhỏ đi kèm các bệnh lý khác, chẳng hạn như viêm đường mật xơ dính nguyên phát, thì chúng lại có khả năng là ác tính.

Các nghiên cứu cho biết có không ít yếu tố liên quan đế việc hình thành polyp túi mật như: rối loạn chức năng gan mật; nồng độ đường trong máu cao; nồng độ mỡ trong máu tăng; người béo phì, nhiễm virut viêm gan... Tuy nhiên cho đến nay chưa có nghiên cứu nào chứng minh rõ ràng cho mối liên lạc giữa các nhân tố nguy cơ với sự tạo ra polyp túi mật.

Rất khó phát hiện bệnh

Trên thực tế, polyp túi mật thường được phát hiện tình cờ khi kiểm tra vùng bụng bằng siêu âm hoặc có biểu hiện đau bụng. Có khoảng 6-7% bệnh nhân bị polyp túi mật có biểu hiện triệu chứng, thường gặp đặc biệt đau tức dưới sườn phải hay đau vùng trên rốn, 1 số ít có biểu hiện buồn nôn hay nôn thật sự, ăn chậm tiêu, thấy co cứng nhẹ vùng da bụng tại dưới sườn phải.

Với triệu chứng đau ở dưới sườn tuy giống bệnh sỏi túi mật, nhưng khác với sỏi túi mật ở chỗ, polyp túi mật ít khi có biểu hiện cấp tính do viêm hay những biến chứng của sỏi gây ra như viêm đường mật, tắc mật.

Siêu âm có thể phát hiện thấy hình ảnh nâng cao âm bám trên bề mặt túi mật, không có bóng cản và không đánh tráo theo tư thế người bệnh, đây là dấu hiệu để phân biệt với sỏi túi mật. Tuy nhiên, siêu âm không thể phân biệt được là polyp lành tính hay ác tính để có chỉ định phẫu thuật. Thông thường siêu âm có thể thấy hình ảnh chung của polyp túi mật là 1 bóng giống polyp mọc vào trong lòng túi mật, thường là bất động, trừ lúc là polyp có cuống dài; các hình ảnh polypcholesterol thường có kích thước nhỏ với tỉ lệ trên 90% là dưới 10mm, phần nhiều nhỏ hơn 5mm. Nếu là adenoma thì có kích thước to hơn, đơn độc, không cuống với mạch máu bên dưới và độ phản âm trung bình. Nếu polyp có đường kính trên 10mm thì tỷ lệ ác tính là 37-88%.

Điều trị và theo dõi

Trên thực tế hầu hết các polyp lành tính nên không cần được phẫu thuật cắt bỏ. Trường hợp polyp xảy ra ở những người trên 50 tuổi, kích thước polyp lớn hơn 1cm mà có kèm theo sỏi mật, lúc đó cần phẫu thuật cắt bỏ luôn cả túi mật. Đặc biệt đối với các polyp có nguy cơ ác tính thì bác sĩ thường chỉ định phẫu thuật cắt túi mật nội soi là một tin tưởng lựa chọn cho polyp nhỏ hoặc đơn độc dạng này.

Khi nghi ngờ polyp túi mật phát hiện qua siêu âm nhưng bệnh nhân không có triệu chứng như đau, sốt... trường hợp này bệnh nhân cần phải theo dõi, kiểm tra lại sau 6 tháng hay 1 năm để xác định thái độ điều trị: nếu như sau thời gian đó mà không còn hình ảnh của polyp thì không cần được xử trí gì. Trái lại, lúc hình ảnh polyp rõ, cần theo dõi định kỳ bằng siêu âm 6 tháng nếu như khối u lớn trên 10mm hoặc có phát hiện các biểu hiện ác tính qua xét nghiệm máu, các thăm dò khác hoặc polyp đã có biểu hiện lâm sàng như đau, sốt tái phát thì cần phải phẫu thuật sớm. Phẫu thuật nội soi, cắt túi mật nội soi là phẫu thuật ít xâm hại, ít đau và bệnh nhân hồi phục nhanh, ít biến chứng.

Lời khuyên của bác sĩ

Do polyp túi mật không có triệu chứng và có thể là ung thư nên mọi người nên khám sức khỏe tổng quát định kỳ 6 tháng một lần để phát hiện và điều trị bệnh sớm. Cần hạn chế các nhân tố liên quan tới sự hình thành polyp túi mật như chẩn đoán và điều trị tích cực các rối loạn chức năng gan mật; nồng độ đường, mỡ trong máu cao, viêm gan do virut...

Bs. Bùi Thị Thu Hương

Suýt mất mạng chỉ vì mò đốtSuýt mất mạng chỉ vì mò đốtBiểu hiện thường gặp của suy timBiểu hiện thường gặp của suy tim6 phát hiện mới vào sức khỏe người cao tuổi6 phát hiện mới về sức khỏe người cao tuổi

 

Sạc pin điện thoại trong phòng ngủ dễ gây béo phì

Đại học Granada, bệnh viện La Paz University Hospital (Tây Ban Nha) và Đại học Texas (Mỹ) đã phối hợp nghiên cứu và tiếp nhân thấy ánh sáng nhân tạo phát ra từ màn hình điện thoại, máy tính, TV hay đèn đường sẽ ngăn cơ thể tiết ra 1 hormone chống béo phì, đó là chất melatonin.

Trong số này, ánh sáng xanh dương có bước sóng ngắn, do một số thiết bị phát ra trong quá trình sạc pin, được đánh mức giá là nhân tố dễ phá giấc ngủ nhất và tác động xấu nhất đến quá trình bàn luận chất của con người. Ánh sáng này không đủ mạnh để chiếu sáng cả căn bộ phận nhưng vẫn đủ khả năng gây hại cho cơ thể.

Chất melatonin rất nhu yếu cho việc điều hoà giấc ngủ và tăng quy trình bàn luận chất. Các thử nghiệm trên những con chuột béo cho thấy chúng giảm cân nếu hấp thu nhiều melatonin và từ đó ngăn được bệnh tiểu đường type 2. Các nhà khoa học tin rằng điều này có tác động như vậy với con người.

charge-8054-1413071508.jpgNgười dùng không nên sạc điện thoại qua đêm trong bộ phận ngủ. Ảnh: Independent.

 

"Dù trong hoàn cảnh nào, bạn cũng nên nỗ lực duy trì thói quen ngủ trong môi trường hoàn toàn tối, tránh can thiệp về quá trình sản sinh melatonin", giáo sư Ahmad Agil, trưởng nhóm nghiên cứu, nhấn mạnh. Mọi người nên tắt điện thoại, tablet, máy tính... 1 khoảng thời gian nhất định trước lúc đi ngủ và ngủ đúng giờ.

Ngoài ra, một lượng lớn hormone này cũng được tìm thấy trong gia vị, thảo mộc, trà, cafe, hoa quả, các loại hạt và rau mầm.

Từ đầu năm nay, các nhà khoa học hàng đầu ở Oxford, Cambridge và Harvard cũng đã cảnh báo rằng việc ngủ không đủ giấc có thể gây hại nghiêm trọng tới sức khoẻ, như mắc bệnh ung thư, bệnh tim, tiểu đường type hai và béo phì.

 

Con người có thể nhận thức sau khi chết lâm sàngCon người có thể nhận thức sau khi chết lâm sàngNgành thể thao cần thừa tiếp nhân thực tếNgành thể thao cần thừa nhận thực tếCó nên cho con uống sữa phát triển chiều caoCó nên cho con uống sữa phát triển chiều cao

 

(Vnexpress)

Vi khuẩn trong rượu vang có lợi cho sức khỏe

Trong nghiên cứu này, TS. Dolores Gonzalez de Llano, Trường đại học Autonoma de Marid cùng các cộng sự đã tiến hành cô lập 11 chủng vi khuẩn từ rượu vang kể cả các chủng Lactobacillus, Oenococcus và Pediococcus hình thành trong quá trình lên men. Các nhà khoa học xem xét liệu vi khuẩn trong rượu vang có sống sót được lúc tiếp xúc với dạ dày mô phỏng với nước trái cây, mật và lysozym, 1 loại enzym có rất nhiều trong nước bọt có thể làm hỏng các tế bào vi khuẩn. Kết quả cho thấy vi khuẩn trong rượu vang có thể tồn tại, thậm chí sống sót tốt hơn so với các vi khuẩn có lợi khác, song song bám về thành ruột giúp loại trừ các tác nhân gây bệnh. Đặc biệt, một chủng vi khuẩn được tìm thấy trong rượu vang là P.pentosaceus CIAL - 86 có khả năng bám vào thành ruột và hoạt động hiệu quả trong việc chống lại các E.coli. Đặc tính của chúng là tạo ra axit lactic được phân lập từ rượu vang cũng tương tự như lúc tiêu thụ các chế phẩm sinh học như sữa chua lên men, trái cây. TS. Dolores Gonzalez de Llano cho biết: “Mỗi ngày uống 2 ly rượu vang có thể đem lại lợi ích sức khỏe”.

Quốc Tuấn (Theo LS, 9/2014)

Gai cột sống, khi nào cần điều trị?

Gai cột sống là một biểu hiện của thoái hóa cột sống và cũng là 1 trong nhiều nguyên nhân gây ra đau lưng, đau cột sống cổ. Khi lớp sụn đĩa đệm giữa các đốt sống bị mất hoặc giảm chức năng dẫn đến mâm đốt sống phải chịu lực quá mức, sẽ hình thành các gai xương ngoài rìa thân đốt sống. Với bệnh lý này, không phải khi nào cũng cần yếu phải điều trị, chỉ can thiệp lúc có triệu chứng hoặc gây ra những biến chứng nghiêm trọng.

Biểu hiện và triệu chứng của gai cột sống

Nếu gai cột sống thắt lưng thì bệnh nhân có thể thấy đau tập trung ở giữa thắt lưng hay lan tỏa xuống vùng hông. Hầu hết bệnh nhân có cơn đau thắt lưng ở mức độ thấp và chịu đựng được (mạn tính), dù thỉnh thoảng có cơn đau dữ dội kéo dài vài ngày ảnh hưởng tới đi đứng, hạn chế vận động. Với cơn đau mạn tính, bệnh nhân đau nhiều hơn khi vận động, cơn đau sẽ giảm bớt lúc nghỉ ngơi.

Nếu gai cột sống diễn ra tại vùng cổ, bệnh nhân thường đau sau gáy, đau hai bên vai. Một số bệnh nhân bị gai cột sống cổ có thể bị đau buốt kéo lên đỉnh đầu, đau nửa đầu, chóng mặt, buồn nôn, mất ngủ. Gai cột sống cổ nặng, nhất là khi kèm theo thoát vị đĩa đệm vùng cổ, có thể chèn ép các rễ thần kinh, gây đau, tê lan xuống vai, cánh cẳng tay.

Trường hợp bệnh nhân ban đầu chỉ cảm thấy đau vùng thắt lưng, nhưng lâu dài cơn đau lan xuống mông, chân, hoặc đang đau vùng cổ, vai bỗng cơn đau lan xuống cánh tay thì có thể tổn thương đã chèn ép lên rễ dây thần kinh cột sống.

Nếu chủ quan không điều trị, vào trong tương lai bệnh nhân có thể bị biến chứng vẹo, gù cột sống và nếu như có chèn ép rễ dây thần kinh cột sống kéo dài sẽ gây yếu cơ, teo cơ ở tay hoặc chân.

Chỉ phẫu thuật khi tổn thương chèn ép nặng

Gai cột sống hiếm khi can thiệp ngoại khoa, trừ trường hợp bệnh nhân bị biến chứng gây thoát vị đĩa đệm nặng, tổn thương gây chèn ép rễ dây thần kinh. Lúc này phải phẫu thuật để giải phóng chèn ép, chỉnh hình lại…

Để hạn chế bị gai cột sống cũng như thoái hóa khớp và cột sống nói chung, không nên vận động, bưng vác quá sức; khi bê nhấc vật nặng, tránh cúi gập lưng. Không nên ngồi lâu trong tư thế không dựa lưng, thiếu điểm tựa. Các bài tập thể dục cột sống cổ, thắt lưng hay những môn thể thao nhẹ nhàng như đi bộ, bơi lội sẽ hữu ích, giúp làm chậm quá trình thoái hóa cột sống.

Cần nỗ lự giữ cân nặng lý tưởng, bởi các nghiên cứu cho thấy những người tăng cân, béo phì có nguy cơ bị các bệnh lý thoái hóa cao hơn bình thường.

Đau lưng không chỉ là biểu hiện của bệnh lý gai cột sống mà còn có thể là dấu hiệu của 1 số bệnh lý nguy hiểm như viêm nhiễm cột sống (do bệnh tự miễn, do vi trùng, do lao), hay loãng xương (làm gãy lún các đốt sống). Đau lưng cũng có thể do các bệnh lý ác tính di căn đến cột sống. Bởi vậy, khi bị đau lưng mà kèm theo sốt, sụt cân, thiếu máu, bí tiêu tiểu, yếu tay chân thì đi khám ngay tại các cơ sở y tế để được chẩn đoán, điều trị kịp thời.

Bác sĩ Nguyễn Minh Xuyên

Nguy cơ mất khả năng lao động vì gai cột sốngNguy cơ mất khả năng lao động vì gai cột sốngNguyên nhân bị gai cột sốngNguyên nhân bị gai cột sốngGai cột sống chữa thế nào?Gai cột sống chữa thế nào?

Bài thuốc trị rối loạn lipid máu

Rối loạn lipid máu là tình trạng rối loạn chuyển hóa mỡ trong cơ thể dẫn đến nồng độ chất mỡ trong huyết tương vượt ra khỏi phạm vi cho phép. Bệnh càng ngày càng phổ biến cùng với đời sống càng phát triển và áp lực trong xã hội gia tăng. Rối loạn lipid máu có quan hệ mật thiết với vữa xơ động mạch, là Xuất xứ của nhiều bệnh về tim mạch hiểm nguy nên còn được gọi là “sát thủ thầm lặng”.

Y học cổ truyền cho rằng rối loạn lipid máu là do các nhân tố về thể chất, ăn nhiều chất không điều độ hoặc do tinh thần, thần chí thất thường làm rối loạn vào chức năng của ba tạng (tỳ, thận, can) lâu ngày sinh ra đàm trọc mà phát bệnh.

Căn cứ về các triệu chứng chính mà y học cổ truyền chia ra các thể sau:

Tỳ hư thấp thịnh

Triệu chứng thường gặp đầu nặng người mệt, chân tay tê mỏi, nặng nề bụng đầy ăn kém, mi mắt nặng hoặc hai chân phù thũng, miệng nhạt không khát, đại nhân tiện lỏng nát, tiểu tiện thể nhiều, lưỡi nhợt bệu, rêu trắng dày, mạch trầm hoãn.

Bạch truật.

Bạch truật.

Pháp điều trị: ích khí kiện tỳ, hòa vị thẩm thấp.

Bài thuốc: Sâm linh bạch truật tán gia giảm: đảng sâm 12g, bạch linh 12g, bạch truật 12g, chích cam thảo 6g, ý dĩ 16g, cát cánh 12g, sa nhân 8g, trạch tả 12g, trư linh 12g, lá sen 12g; mỗi ngày 1 thang, sắc uống 2 lần.

Đàm trọc nội trở

Triệu chứng hay gặp hình thể béo bệu, đầu nặng căng trướng; ngực bụng đầy tức, chân tay tê nặng, buồn nôn hoặc nôn khan, miệng khô không khát, ăn kém bụng đầy, ho khạc đờm, lưỡi nhợt rêu trắng dày dính, mạch huyền hoạt.

Pháp điều trị: kiện tỳ hóa đàm trừ thấp.

Bài thuốc: Bán hạ bạch truật thiên ma thang gia giảm: trần bì 10g, bán hạ chế 12g, bạch truật 12g, đởm nam tinh 10g, bạch linh 16g, chích cam thảo 6g, chỉ thực 12g, thạch xương bồ 10g, thiên ma 12g; mỗi ngày 1 thang, sắc uống hai lần.

Thấp nhiệt nội uẩn

Triệu chứng thường thấy người mệt đầu nặng, trong ngực phiền muộn, hoa mắt chóng mặt, bụng đầy ăn kém, miệng đắng mà khô, đại luôn thể lỏng nát nặng mùi, tiểu tiện thể vàng, lưỡi đỏ rêu vàng nhầy dính, mạch hoạt sác.

Pháp điều trị: thanh nhiệt hóa đàm, hành khí tiêu trệ.

Phương dược: Nhân trần hao thang gia giảm: nhân trần 16g, đại hoàng 3g, chi tử 8g, cốt khí củ 12g, lá sen 12g, sơn tra 12g, trạch tả 12g, cam thảo 6g; mỗi ngày một thang, sắc uống 2 lần.

Khí trệ huyết ứ

Triệu chứng ngực tức đau, tâm quí khí đoản, chất lưỡi ám tím hoặc có ban điểm ứ huyết, rêu mỏng mạch tế sáp hoặc trầm sáp.

Pháp điều trị: sơ can lý khí, hoạt huyết thông mạch.

Bài thuốc: Huyết phủ trục ứ thang gia giảm: đào nhân 12g, hồng hoa 8g, đương qui 12g, sinh địa 12g, xuyên khung 10g, xích thược 12g, ngưu tất 12g, cát cánh 10g, sài hồ 8g, chỉ xác 12g;  mỗi ngày 1 thang, sắc uống 2 lần.

Can thận âm hư

Triệu chứng: đầu váng mắt hoa, lưng gối đau mỏi, ngũ tâm phiền nhiệt, hình gầy, hay mệt, miệng khô, họng khát, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch tế sác. Thất miên đa mộng, kiện vong ù tai, lưng gối đau mỏi, chân tay tê bì, tóc rụng răng long, hành động chậm chạp, miệng khô họng táo, chất lưỡi nhợt tối, rêu trắng mỏng hoặc không rêu, mạch trầm nhược.

Bán hạ chế.

Bán hạ chế.

Pháp điều trị: tư dưỡng can thận.

Bài thuốc: Kỷ cúc địa hoàng hoàn gia giảm: thục địa 16g, hoài sơn 12g, sơn thù 12g, đan bì 8g, bạch linh 12g, trạch tả 10g, kỷ tử 12g, cúc hoa 10g; mỗi ngày 1 thang, sắc uống 2 lần.

Can uất tỳ hư

Triệu chứng: đau 2 mạng sườn, đau không cố định, mệt mỏi, ăn kém, tinh thần bất định, đại nhân thể lỏng nát, kinh nguyệt không đều, quanh vú trướng đau, rêu lưỡi mỏng nhờn, mạch huyền.

Pháp điều trị: sơ can giải uất - kiện tỳ dưỡng huyết.

Bài thuốc: Tiêu giao tán gia vị:  bạch linh 16g, bạch truật 16g, bạch thược 12g, sài hồ 8g, đương quy 12g, gừng sống 3 lát, cam thảo 4g, đại táo 12g, trần bì 8g, ý dĩ 12g, mỗi ngày một thang, sắc uống hai lần.

TS.BSCKII. DƯƠNG TRỌNG NGHĨA

Sim - Cây thuốc bổ huyết, chống lão hóaSim - Cây thuốc bổ huyết, chống lão hóaCông dụng của dâu rượuCông dụng của dâu rượuBạch quả và vị thuốc ngân hạnhBạch quả và vị thuốc ngân hạnh

 

Thoái hóa đốt sống cổ: Làm gì để không bị biến chứng?

Ngày nay, tỷ lệ người bị thoái hóa đốt sống cổ (THĐSC) càng ngày càng có xu thế gia tăng, bệnh gặp cốt yếu tại người trưởng thành, nhất là tại người cao tuổi. THĐSC có ảnh hưởng nhiều tới sức khỏe, có thể gây nên các biến chứng, thậm chí là biến chứng nguy hiểm.

Đặc điểm của đốt sống cổ

Cột sống có 33 đốt, trong đó 7 đốt sống cổ và được gọi tên từ C1 - C7. Giữa hai đốt sống từ C2 trở xuống có các đĩa đệm gian đốt sống. Mỗi đĩa đệm được cấu tạo bởi nhân nhầy, vòng sợi, mâm sụn, có chiều cao 3mm, bằng 2/5 chiều cao thân đốt sống. Xung quanh đốt sống có các dây chằng, gân cơ bám vào. Đĩa đệm cột sống cổ là phòng chính để liên kết các đốt sống. Mâm sụn gắn chặt vào tấm cùng của thân đốt sống bằng 1 lớp canxi có không ít lỗ nhỏ có tác dụng dinh dưỡng cho đĩa đệm (theo kiểu khuếch tán) và bảo vệ xương khỏi bị nhân nhầy ép vào, bảo vệ đĩa đệm khỏi bị nhiễm khuẩn từ xương đi tới. Nhân nhầy di chuyển lúc cột sống cử động và có tác dụng làm giảm xóc khi có lực tác động vào đốt sống. THĐSC là tình trạng viêm dày và lắng tụ canxi ở các dây chằng dọc cổ, làm hẹp các lỗ ra của các rễ thần kinh biểu hiện ra bằng các triệu chứng lâm sàng. Việc chèn ép rễ thần kinh và tủy sống còn có thể đưa tới sự thoát vị của các nhân đĩa đệm chèn vào tủy sống gây nên các biến chứng.

Thoát vị đĩa đệm ĐSC là 1 biến chứng nguy hiểm và hay gặp do thoái hóa ĐSC.

Vì sao bị THĐSC?

Người bị THĐSC thường bị đau cổ khi vận động, cơn đau kéo dài từ gáy lan ra tai, đầu, vùng trán, đau từ gáy lan xuống bả vai... làm cho hoạt động phần cổ bị hạn chế. THĐSC thường gặp ở người có công việc luôn đòi hỏi cúi nhiều, ngửa nhiều hoặc ở người liên tục mang vác nặng hay ngồi trước màn hình vi tính hoặc xem vô tuyến quá lâu làm sai lệch cấu trúc bình thường của cổ, dẫn đến biến đổi mô xương, dây chằng, cơ và dễ dẫn đến thoái hóa các mô cột sống hoặc hình thành các gai xương đốt sống. NCT do ít vận động, nằm 1 tư thế, ăn uống thiếu chất làm cho vùng cổ, gáy không được thường xuyên cử động, hoặc chỉ giữ nguyên 1 tư thế làm cho máu ít lưu thông, các tổ chức nuôi dưỡng kém. Ngoài ra còn có thể do tư thế ngủ (chỉ nằm 1 hoặc hai tư thế, sử dụng gối không phù hợp, không có thói quen chuyển mình...). THĐSC ví dụ không được chẩn đoán sớm, điều trị kịp thời và đúng phương pháp sẽ gây nhiều biến chứng.

Thoát vị đĩa đệm đốt sống cổ - Biến chứng nguy hiểm của THĐSC

THĐSC tại giai đoạn đầu cảm thấy cổ cứng, hơi đau khi cúi xuống và bắt đầu khó xoay chuyển, sau 1 thời gian thấy đau nhức vùng cổ, đau nhức lan dần xuống vai, gáy, tai, đầu. Giai đoạn tiếp theo người bệnh có hiện tượng đau đầu, xoay cổ thấy đau, vướng, nhất là thỉnh thoảng bị vẹo cổ. Các triệu chứng đau nhức, tê, mỏi ở vùng chẩm, trán, lan xuống cánh tay (một bên hay cả hai tùy theo sự chèn ép về dây thần kinh) và bắt đầu có tê cánh tay, bàn tay, ngón tay. THĐSC nếu không phát hiện, điều trị kịp thời có thể gây ra một số biến chứng như rối loạn tiền đình do thoái hóa đốt sống cổ làm tổn thương vào lỗ tiếp hợp (đau đầu, chóng mặt, buồn nôn mỗi khi đứng lên, ngồi xuống, trảo đổi tư thế khi nằm), làm cho người bệnh mệt mỏi, ăn kém, ngủ kém, lo lắng, trầm cảm, đặc biệt là người cao tuổi rất dễ bị ngã gây tai nạn. Đây là một vòng luẩn quẩn, càng lo lắng, mệt mỏi, ngủ kém thì THĐSC càng nặng thêm. Biến chứng đáng ngại đặc biệt thoát vị đĩa đệm đốt sống cổ, mà khi không may gặp phải biến chứng này thì việc điều trị không đơn giản chút nào, đặc biệt có chèn ép tủy sống, thậm chí còn có thể gây bại liệt một hoặc hai tay, rối loạn cảm giác tứ chi, rối loạn thực vật, chèn ép rễ thần kinh, tủy hoặc gây rối loạn thần kinh thực vật (đại tiểu nhân tiện không tự chủ). Do vậy, để xác định THĐSC cần khám lâm sàng (chuyên khoa thần kinh là tốt nhất), chụp Xquang cột sống cổ, chụp cắt lớp vi tinh (CT), rất tốt nhất là chụp cộng hưởng từ (MRI), kết hợp với các thăm dò hiện đại khác để phát hiện, xử lý kịp thời.

Cách điều trị và dự bộ phận THĐSC

Khi bị THĐSC ở mức độ nhẹ, người bệnh cần nghỉ ngơi, thư giãn, kết hợp vật lý trị liệu an toàn (tránh vật lý trị liệu thô bạo làm cho bệnh thêm nặng). Ngoài ra có thể dùng thuốc giảm đau, giãn cơ (uống, dán, thoa ngoài da), thuốc tăng cường thần kinh hoặc vitamin nhóm B hoặc châm cứu giảm đau (phải do các bác sĩ có kinh nghiệm tiến hành). Việc điều trị bằng phương pháp gì, thuốc gì cần có chỉ định của bác sĩ khám bệnh, tốt đặc biệt bác sĩ chuyên khoa thần kinh. Người bệnh không nên tự mua thuốc để điều trị. Không nên lắc, quay vặn cổ lúc đã bị thoái hóa đốt sống cổ, nhất là là lúc đã bị thoát vị đĩa đệm sẽ làm bệnh nặng thêm. Khi ngủ cần gối đầu với gối có độ cao vừa phải thật thoải mái (không cao, không thấp quá) và nên thỉnh thoảng thay đổi tư thế để cho máu được lưu thông. Nên có chính sách ăn giàu canxi (tôm, cua, ốc, uống sữa có canxi,...) và ăn nhiều rau, trái cây để bồi phụ các loại vi chất cần thiết, trong đó có các vitamin.

BS. Đặng Phương Linh

 

Những biến chứng thoái hóa đốt sống cổNhững biến chứng thoái hóa đốt sống cổDấu hiệu thoái hóa đốt sống cổDấu hiệu thoái hóa đốt sống cổThoái hóa đốt sống cổThoái hóa đốt sống cổ

 

Bất ngờ với những chứng bệnh do... “rung chuyển”

Trong lao động và sinh hoạt, rung chuyển rất thường gặp đối với nhiều người, như sự rung chuyển của ôtô, xe máy, tàu hỏa, ca nô, máy bay, máy nổ... Rung chuyển có thể gây bệnh toàn thân hoặc cục bộ, tùy thuộc về tần số và biên độ rung mà người bệnh phơi nhiễm.

Rung chuyển gây nhiều bệnh

Nhiều nghiên cứu cho thấy, rung chuyển tần số thấp gây bệnh say tàu, xe, do ảnh hưởng chính yếu ở cơ quan tiền đình; rung sóc bởi xe cộ gây đau lưng, đau cột sống; rung chuyển tại tần số cao gây tổn thương xương khớp, rối loạn vận mạch, tổn thương cơ, thần kinh, bệnh hay gặp ở cân cơ, thần kinh tay, bàn tay, cánh tay, cẳng tay và vai. Bệnh rung chuyển ở tần số cao thường nâng cao lên lúc kết hợp với lao động nặng nhọc, môi trường lao động quá nóng hoặc quá lạnh, nhiều tiếng ồn và độc hại. Thường gặp 3 dạng bệnh là: tổn thương xương khớp; rối loạn vận mạch (bệnh Raynaud); tổn thương cơ, thần kinh.

Các vị trí dễ bị tổn thương do rung chuyển.

Các vị trí dễ bị tổn thương do rung chuyển.

Khi sử dụng các dụng cụ cầm tay như khoan, máy cưa, máy mài... tay phải đỡ sức nặng của máy, cơ co mạnh liên tục, tạo điều kiện cho việc dẫn truyền rung chuyển về xương, về các mặt khớp. Mặt khớp dưới tác dụng của co cơ, siết về nhau 1 cách bất thường. Rung chuyển liên tục trong tương lai gây vi chấn thương, tác động đến khớp, phát sinh những tổn thương làm bong ra những mảnh xương nhỏ, từ đó có hiện tượng những gai xương và những dị vật trong khớp, những lồi xương, vôi hoá.

Rung chuyển phá huỷ một số sợi thần kinh vận mạch, sau một thời gian, mạch Tiến hành phản ứng mạnh hơn với kích thích bên ngoài như lạnh, gây ra hiện tượng Raynaud.

Bệnh tổn thương cơ, xương khớp, mạch máu

Tổn thương xương và khớp: hay gặp tại chi trên, nhiều đặc biệt cổ tay sau đó giảm dần và ít ở vùng vai với biểu hiện chính là viêm xương và hư khớp. Các khớp đau bất kỳ khi nào, không đau dữ dội, không biến dạng khớp, không sưng, khó cử động, nhiều khớp đều bị tổn thương. Bệnh nhân còn có thể đau nhiều tại khớp vai, khớp gối hay 1 số khớp khác không liên quan với tổn thương xương, khớp, do một số nguyên nhân như sự căng cơ, tư thế lao động, cách thao tác máy, sự mệt mỏi do gắng sức...

Tổn thương ngón tay trong bệnh Raynaud do rung chuyển.

Tổn thương ngón tay trong bệnh Raynaud do rung chuyển.

Chụp Xquang thấy hình ảnh khuyết xương: các hốc xương nhỏ hình thành chủ yếu gặp tại các xương cổ tay.

Rối loạn vận mạch (bệnh Raynaud): Bệnh nhân bị rối loạn tuần hoàn mao mạch đầu chi và rối loạn cảm giác bàn tay. Cơn bệnh diễn biến làm 2 giai đoạn: giai đoạn đầu là thiếu máu cục bộ, các ngón tay trắng bệch rồi xanh nhợt; gây cảm giác lạnh và tê cóng. Giai đoạn hai là những cơn đau và dấm dứt các ngón tay; các ngón đỏ bừng có lúc tím lại; đau dữ dội không chịu được. Cơn bệnh khởi phát không phải lúc bị rung chuyển mà do lạnh. Nếu lạnh toàn thân dù tay không lạnh, làm phát cơn mạnh hơn là lạnh cục bộ tại 2 bàn tay. Chụp phim Xquang thấy hình ảnh mất vôi, xơ hoá, có hốc, đầu dưới xương trụ, xương quay và toàn bộ xương cổ tay bị mất vôi.

Tổn thương cân cơ thần kinh: Bệnh nhân bị teo cơ tại mô trái bàn tay hay mô út; teo các cơ liên cốt, cơ cẳng tay... Rung chuyển tần số cao còn gây một số triệu chứng như đau kiểu bỏng rát, kèm theo tê cóng và dị cảm. Da đỏ hay tím, sưng phồng; bị đau ở bàn tay, cẳng tay, cánh tay và bả vai... Có hiện tượng chuột rút, các thớ cơ bị đứt, nhất là cơ delta. Rung chuyển còn gây bệnh Dupuytren, gây co gấp ngày một tăng, không thuyên giảm tại 4 ngón tay cuối.

Điều trị thế nào?

Điều trị các bệnh do rung chuyển khó khăn nhất là là các tổn thương tại xương khớp. Điều trị phải dùng các thuốc giảm đau chống viêm không steroid. Vật lý trị liệu kết hợp với việc tập luyện thể lực vừa sức, theo hướng dẫn của bác sĩ.

Tổn thương rối loạn vận mạch cốt yếu là điều trị phục hồi bằng mọi phương pháp có thể như thuốc và vật lý trị liệu. Dùng các vitamin, kích thích làm ấm kết hợp với thuốc giãn mạch. Bệnh nhân cũng cần có chế độ dinh dưỡng đảm bảo đủ chất và lượng, nâng cao cường các loại thực phẩm giàu canxi và vitamin D, chống loãng xương.

Lời khuyên thầy thuốc

Định kỳ khám sức khoẻ cho người lao động để phát hiện sớm các tổn thương bệnh lý và điều trị kịp thời. Tránh đi xe tốc độ cao, nhất là tại những nơi mặt đường gồ ghề để hạn chế sự rung chuyển. Khi làm việc với dụng cụ cầm tay cần nghỉ ngơi định kỳ, tránh làm việc kéo dài để giảm thiểu tác dụng của rung chuyển đến cơ khớp... Khi cần bệnh nhân có thể phải chuyển sang làm các công việc nhẹ nhàng, không có rung chuyển.

BS. Trần Văn Phong

Chất tạo ngọt nhân tạo làm tăng nguy cơ mắc bệnh đái tháo đườngChất tạo ngọt nhân tạo làm tăng nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường9 siêu thực phẩm tốt cho thận của bạn9 siêu thực phẩm rất tốt cho thận của bạnTác dụng chữa bệnh thần kì từ quả gấcTác dụng chữa bệnh thần kì từ quả gấc

 

Chứng sợ bệnh viện và liệu pháp chữa trị

Mặc dù bệnh viện là nơi chúng ta đến để điều trị bệnh tật và lấy lại sức khỏe, nhưng nhiều cuộc khảo sát cho thấy, trên thế giới có hàng triệu người sợ đi bệnh viện, sợ uống thuốc và phẫu thuật.

Trong đó, một số người trở nên quá âu lo sợ hãi đến nỗi những nỗi sợ này đã được gọi tên và thể hiện trong y văn. “Nosocomephobia” là tên gọi chứng sợ bệnh viện; đây là một từ có Xuất xứ Hy Lạp, được ghép từ hai thành tố nosokemeion nghĩa là bệnh viện và phobos nghĩa là nỗi sợ. Ngoài ra, chúng ta còn có từ “Tomophobia” là thuật ngữ chỉ nỗi sợ làm phẫu thuật, và “Pharmacophobia” là nỗi sợ uống thuốc.

Chứng sợ bệnh viện - cũng như nỗi sợ uống thuốc và sợ phẫu thuật - đã và đang khiến cho nhiều người ngần ngại, không dám tới bệnh viện hoặc đi khám bác sĩ để chữa dứt bệnh tật của mình. Nhiều bậc cha mẹ gặp khó khăn khi đưa con trẻ đi khám bệnh bởi vì trẻ luôn quấy khóc sợ hãi mỗi khi phải uống thuốc, tiêm thuốc hoặc đến bệnh viện. Một số người thậm chí để mặc cho bệnh tật trở nên trầm trọng hơn chỉ vì những nỗi sợ không đáng có này. Ngay cả 1 hành động tưởng chừng như đơn thuần là uống thuốc để lành bệnh cũng có thể khiến nhiều người sợ đến toát mồ hôi mỗi khi thực hiện.

3 nguyên do chính của chứng sợ bệnh viện

Một trong những nguyên do chính yếu khiến nhiều người ngại đến bệnh viện nằm tại nỗi sợ mất quyền kiểm soát. Việc giao phó sức khỏe - thậm chí mạng sống của mình - cho người khác vốn không thuộc vào bản năng tự nhiên của con người, kể cả lúc đó là điều cần thiết. Thẳm sâu trong tiềm thức, chúng ta luôn cho rằng người chỉ có có quyền làm chủ và chữa trị cho cơ thể của mình phải là chính chúng ta chứ không được phép là bất kỳ ai khác. Vì lý do này, nhiều người cảm thấy hồi hộp và âu lo mỗi lúc phải vào viện, đặc biệt lúc bị gây mê - tình trạng mà con người mất hoàn toàn khả năng kiểm soát bản thân.

Nguyên nhân chính yếu khiến nhiều người ngại đến bệnh viện nằm ở nỗi sợ mất quyền kiểm soát

Nguyên nhân chủ yếu khiến nhiều người ngại đến bệnh viện nằm ở nỗi sợ mất quyền kiểm soát

Nguyên nhân thứ 2 liên quan đến điều mà tất cả con người đều khao khát: một cuộc sống tốt đẹp và khỏe mạnh hơn. Chúng ta đã đầu tư, thậm chí hy sinh quá nhiều cho cuộc sống của mình và để có được những gì mình đang có: sự nghiệp, gia đình, tài sản hay sự giàu có, các mối quan hệ... Do vậy, đến lúc phải nằm trên giường bệnh hoặc chuẩn bị lên bàn mổ, chúng ta lo sợ việc rằng mình sẽ có thể mất toàn bộ nếu như việc điều trị gặp bất trắc hoặc không mang lại kết quả.

Nguyên nhân cuối cùng của chứng sợ bệnh viện, sợ uống thuốc cũng như sợ phẫu thuật chính là sợ chết - 1 nỗi sợ mang tính chất bản năng sống còn của mọi con người. Bệnh viện khiến nhiều người trong chúng ta liên tưởng đến những bệnh nan y, tai nạn và thương vong chết chóc. Nhiều người hình thành nỗi sợ bệnh viện bởi họ đã từng có những trải nghiệm quá khứ không vui lúc phải nằm viện, từng chứng kiến bệnh nhân khác nằm viện và tử vong cũng ngay ở bệnh viện. Thậm chí, do nỗi sợ có tính chất lây lan, một người đang bình thường cũng có thể bỗng dưng sợ bệnh viện khi nhìn thấy những người khác trong đó sợ hãi hoặc la khóc khi phải nằm viện, thế là người này tiếp thu những phản xạ đó trong vô thức và hình thành chứng sợ bệnh viện trong chính mình.

5 cách để khắc phục

1. Tin tưởng bác sĩ:

Đây là niềm tin cần yếu nhất bạn cần phải rèn luyện được để khắc phục và loại bỏ dần chứng sợ bệnh viện. Cảm giác lo sợ vì mất quyền kiểm soát bản thân chỉ tan biến lúc bạn yên tâm về người chữa bệnh cho mình. Khi bạn đặt trọn niềm tin vào người thầy thuốc, tự khắc bạn sẽ cảm thấy yên tâm về bản thân. Thay vì lo lắng sợ hãi, hãy biết ơn những người thầy thuốc, các y tá, gia đình và những người thân của bạn khi họ đã và đang nỗ lự hết sức để giúp bạn chữa dứt bệnh tật.

2. Tin vào bản thân:

Về mặt tâm lý, sự lo âu hồi hộp đồng nghĩa với việc bạn không yên tâm mọi người. Và sự không tin tưởng người khác kỳ thực chỉ là sự phản ánh nỗi sợ bên trong chính bản thân bạn: bạn không tin vào chính mình, không tin rằng mình có thể vượt qua bệnh tật. Hãy tập thói quen tin tưởng vào bản thân và lắng nghe cơ thể của mình. Thay vì ngồi 1 chỗ lo sợ, hãy tin rằng bạn có thừa khả năng làm mọi thứ để giúp cơ thể mau lành bệnh.

Bạn có thể tưởng tượng ra cảnh mình sẽ vui sướng như thế nào lúc khỏi bệnh để sau đó, mình có thể tha hồ làm những gì mình thích. Liệu pháp tưởng tượng này cũng là 1 bí kíp hiệu quả giúp bạn quên đi những nỗi sợ và tập trung vượt qua bệnh tật.

3. Rèn luyện những thói quen tích cực:

Đừng đợi tới lúc mắc bệnh hoặc vào viện rồi thì mới giải quyết chứng sợ bệnh viện. Bạn hoàn toàn có thể và nên làm điều này ngay trong cuộc sống hàng ngày của mình. Hãy làm và tận hưởng toàn bộ những công việc hoặc thú vui giúp bạn cảm thấy khỏe mạnh hơn như: thiền định, ăn uống vệ sinh, luyện tập thể dục thể thao để bảo đảm sức khỏe và sức đề kháng. Ngoài ra, bạn cũng có rèn luyện cho tâm trí và tinh thần của mình được khỏe khoắn hơn bằng cách dành thời gian cho những người thân yêu, vui cười nhiều hơn, cầu nguyện những điều tốt lành, chơi với thú cưng, có những thú vui sáng tạo cho mình, dọn dẹp nhà cửa hoặc tham gia các hoạt động tình nguyện nhiều ý nghĩa. Hãy giữ cho tâm trí và cơ thể bạn năng động và tập trung vào những suy nghĩ tích cực, để bạn không có thời gian rỗi cho những nỗi sợ lấp vào.

4. Bổ sung kiến thức cho bản thân:

Một trong những lý do khiến chúng ta sợ bệnh viện cũng như ngại việc phẫu thuật hay uống thuốc chính là vì chúng ta không biết điều gì sẽ xảy đến với mình trong quá trình trị liệu. Do vậy, hãy tự tăng kiến thức của mình về những bệnh tật khiến bạn lo lắng bằng cách đọc sách báo và tìm hiểu thêm từ internet. Đối với nhiều người, việc tiên liệu trước được những gì có thể xảy ra giúp họ cảm thấy tự chủ và bình tĩnh hơn trong mọi hoàn cảnh, và bệnh tật cũng không ngoại lệ. Hẳn là bạn sẽ an tâm hơn lúc biết rằng việc trải qua những phương pháp trị liệu đó là bình thường, và hầu hết người khác đã vượt qua thành công suôn sẻ. Vậy nên, tội gì bạn không thể vượt qua kia chứ?

5. Lập kế hoạch cho quá trình chữa trị và phục hồi:

Khi bạn đang phải uống thuốc hoặc nằm viện dài ngày để điều trị bệnh, hãy tập trung cả cơ thể lẫn trí óc của mình về việc phục hồi. Chẳng hạn, ví dụ bạn sắp phải phẫu thuật, bạn có thể lập kế hoạch cho những công việc của mình sau khi điều trị xong. Nếu như việc ngồi không 1 chỗ để cho những nỗi sợ có cơ hội lấn át, việc lên kế hoạch và thực hiện kế hoạch sẽ giúp bạn không có thời gian để bi quan. Sẽ chẳng hay ho gì nếu bạn xuất viện về nhà chỉ để đối mặt với một đống công việc bộn bề chưa hoàn thành! Do vậy, hãy sắp xếp công việc tại nhà và chỉ định những người thân có thể trợ giúp bạn thực hiện những công việc đó. Trong thời gian chờ đến ngày phẫu thuật, bạn có thể nhờ người thân mang tới cho mình những thứ vật dụng có thể giúp mình duy trì tinh thần lạc quan - chẳng hạn như sách báo, máy nghe nhạc, máy tính bảng xem phim - kế bên những vật dụng quan trọng cho việc nằm viện như cốc nước, khăn giấy, xà phòng,... Nếu bạn có con đang trong độ tuổi tới trường, hãy căn dặn những điều quan trọng cho trẻ và bảo đảm có người trông nom chúng.

Bệnh viện, thuốc men cũng như các cuộc phẫu thuật là những phát minh nhằm giúp con người chữa dứt được bệnh tật của mình để có sức khỏe tốt. Thay vì sợ hãi, hãy suy nghĩ tích cực và rèn luyện lòng biết ơn, vì nhờ chúng mà bạn sẽ khỏi bệnh và có một cuộc sống viên mãn như ý muốn. Chưa kể, nhiều nghiên cứu khoa học đã cho thấy, 1 khi bạn có được cái nhìn thân thiện hơn đối với bệnh viện, thuốc men, thiết lập được những mối giao cảm thân tình với thầy thuốc cũng như với chính bản thân mình, sức mạnh tinh thần đó sẽ giúp gia nâng cao tốc độ và hiệu quả hồi phục của bạn lên gấp nhiều lần so với những bệnh nhân chỉ biết bi quan lo sợ.

PHAN NGUYỄN KHÁNH ĐAN

(Tổng hợp từ Internet)

Mỹ sẽ tốn tiền đầu tư ngành vũ trụ hơnMỹ sẽ tốn tiền đầu tư lĩnh vực vũ trụ hơnLiệu pháp tự nhiên giúp gò bồng đảo quyến rũLiệu pháp tự nhiên giúp gò bồng đảo quyến rũPerjeta và Herceptin giúp bệnh nhân ung thư vú thọ hơnPerjeta và Herceptin giúp bệnh nhân ung thư vú thọ hơn